Văn hóa Xuân Long, Cao Lộc

Vùng đất Xuân Long là nơi cư trú của dân tộc Tày và Nùng. Trong cơ cấu dân cư của xã, người Nùng chiếm đa số (80%), sinh sống ở tất cả các thôn, bản. Dân tộc Tày chiếm 20% dân số. Địa bàn cư trú của người Tày, Nùng thường là những vùng gần sông, suối, gần các nguồn nước, vùng trũng thuận tiện cho việc khai phá thành những đám ruộng.

Người Tày, Nùng thường sống thành từng bản, hình thành từ những gia đình nhỏ phụ quyền thuộc các dòng họ khác nhau. Bản ít có vài chục hộ với 2 - 3 dòng họ. Tại các bản thường có 1 đến 2 dòng họ lớn chiếm ưu thế, có uy tín và ảnh hưởng lớn đến các quan hệ xã hội. Đó là những dòng họ có công khai phá đất đai và thành lập bản. Trong xã có một số các dòng họ lớn, định cư ở địa phương nhiều đời như họ Vi ở Nà Lìn, họ Lý ở Nưa Muồn. Họ Hoàng ở Nà Ca.

Xưa kia, Xuân Long có 3 đình là đình Nà Lìn (thôn Nà Lìn) và đình Nà Vài (Thôn Bản Tàn), Đình Nưa Muồn là một trong những công trình tín ngưỡng của nhân dân trong xã. Di tích đình Nà Vài do nhân dân trong thôn xây dựng lên hồi đầu thế kỷ XX. Kiến trúc kiểu nhà dân (chữ Nhất (–)) có tường trình đất, mái lợp ngói âm dương, không có chạm khắc gì. Trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ, đình bị trúng bom và không xây dựng lại từ đó. Đình thờ thần Hoàng Quý Minh (người gốc Nam Định), người đã có công khai phá xã Xuân Long, giúp nhân dân chăn nuôi, trồng trọt, dạy học vào khoảng 400 năm trước. Bên cạnh đó, xã còn đình thôn Nà Lình. Tuy nhiên, các đình đã bị hủy hoại trong chiến tranh và chưa được xây dựng lại. Ngoài ra, ở mỗi thôn Xuân Long còn có miếu thờ Thổ Công. Vào đầu năm mới, người dân thường đến miếu dâng mâm cỗ cầu Thổ Công ban một năm mới tốt lành, may mắn.

Lễ hội

Lễ hội là một phần quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào Tày, Nùng ở Xuân Long. Lễ hội thu hút được nhiều người là hội Lồng tồng (còn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ chức vào ngày 5/1 (âm lịch) hằng năm, trong các dịp lễ hội nam nữ thường hát đối đáp đến sáng. Lễ hội thường tổ chức chủ yếu ở 2 thôn Nà Lìn và Bản Tàn, là dịp ăn mừng kết thúc một năm thắng lợi, đồng thời cũng chuẩn bị đón một năm mới đầy hy vọng; đây còn là dịp để con cháu báo công và tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho một năm làm ăn suôn sẻ, tốt đẹp. Sau phần lễ, phần hội diễn ra sôi nổi với những trò chơi dân gian như: múa sư tử, múa võ, kéo co. Ngoài ra, Xuân Long còn tổ chức lễ miếu vào ngày 2/3 và lễ đình vào ngày 1/4 âm lịch hằng năm. Trong ngày này, các gia đình nhờ thầy mo (thầy cúng) đến làm lễ, trước hết là để cảm ơn các thần đã phù hộ cho một mùa bội thu, sau đó là cầu thần linh phù hộ cho gia đình tiếp tục được bội thu, no ấm trong vụ sản xuất tới.

Trong mỗi dịp lễ hội, làn điệu “lượn” là nét đặc trưng văn hóa của người Tày ở Xuân Long. Lượn là hình thức sinh hoạt tinh thần của nam nữ thanh niên dùng để trao đổi tình cảm lứa đôi. Theo các cụ nghệ nhân, lượn đã có từ khoảng thế kỷ XVI, phát triển thịnh hành vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này. Ở Xuân Long, vào dịp lễ hội, nam nữ thanh niên sẽ đi trẩy hội, hò hẹn, hát giao duyên chơi xuân. Ban ngày họ vui chơi ngoài hội, đến chiều tối họ mời nhau cùng về nhà hoặc là tạm biệt nhau qua đêm, hẹn hò đi tiếp hội làng khác. Vào những dịp này, những đôi trai gái hát lượn đối đáp với nhau. Ngoài ra, lượn còn được sử dụng trong các đám cưới, khi mà các dạ sống (bà đưa) đáp thủ tục văn nghệ với Pú quan làng (ông quan làng), họ đều sử dụng hát lượn để làm thủ tục đối đáp trong đám.

Với người Nùng, làn điệu Sli lại là dân ca đặc trưng. Sli có hai loại là Sli Slong Hầu và Slình làng. Trong đó, làn điệu Sli Slình làng có tới ba hình thức diễn xướng khác nhau là xướng sli, đơn sli và đồng sli. Đơn sli và sli tập thể là hai hình thức diễn xướng kết hợp hài hòa với nhau, để biểu lộ tình cảm giữa nam và nữ. Trong các ngày hội hay chợ phiên, nam nữ thanh niên Nùng rủ nhau đến chợ, đến hội để vui chơi và tìm bạn. Vào ngày này, nếu là bạn đã thân quen và hẹn hò, họ thường ra chỗ vắng để tâm tình. Họ ngồi và đứng cách nhau cả chục mét giữa bụi sim hay dưới bóng cây dâm mát, xướng hát sli đối đáp nhau. Đối với hội xuân, ban ngày họ thưởng thức cuộc vui, chiều đến thường mời nhau bằng hình thức hát xướng sli.

Ngoài làn điệu Sli và làn điệu lượn, Xuân Long còn nét văn hóa là hát then. Hát then là loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc của bà con dân tộc Tày, Nùng Lạng Sơn nói chung và Xuân Long nói riêng, một thể loại văn nghệ dân gian độc đáo và hấp dẫn. Hát then thường được tổ chức trong ngày lễ, mừng nhà mới, hội then (lẩu then), cầu an, chúc thọ người cao tuổi,... với ước mơ về sự bình an, hạnh phúc đến với làng bản và con người. Then lôi cuốn không chỉ dừng lại ở lời ca, tiếng tính tẩu mà còn cuốn hút bởi nghệ thuật biểu diễn vũ đạo của nghệ nhân hay không gian, thời gian diễn xướng,... Ở Xuân Long, then thể hiện văn hóa tâm linh đặc trưng của người dân nơi đây.